Ngày nay lễ cưới của người Việt cũng đã giản lược đi ít nhiều những phong tục và tục lệ cổ xưa. Do giới trẻ ngày nay cũng dần có xu hướng Âu hoá. Tuy nhiên, vẫn không thể mất đi hình ảnh và nguyên tắc của một lễ hỏi cưới truyền thống.

Mâm bánh buồng cau. Trầu cau mang điển tích nhắc nhở lòng thủy chung của đôi trai gái. Gia đình cô dâu sẽ biếu lại nhà trai một phần lễ vật, số còn lại đem chia thành gói nhỏ, biếu họ hàng, bạn hữu để báo tin con mình đã đính hôn.

Phong tục cưới hỏi mỗi miền mỗi khác. Theo tục lệ, nhà trai phải gửi tiền " chợ" cho nhà gái trước hôm làm lễ, để nhà gái có tiền chuẩn bị cho ngày làm lễ. Thông thường được gọi là " lễ dạm ngỏ" hay còn gọi là " lễ hỏi". Lúc đó gia đình 02 bên gặp nhau để thống nhất luôn ngày giờ và trở về công bố cho hai họ cùng bạn bè.

Trước ngày cưới chừng 1 tháng. Cô dâu và chú rể đi chụp ảnh ghi lại những khoảnh khắc yêu thương. Cùng theo đó là may chiếc áo dài cưới thật vừa vặn trang nghiêm để mặc trong lễ cưới, quỳ lại trước bàn thờ gia tiên. Ba mẹ chồng - vợ hai bên cũng sắm sửa cho mình những bộ lễ phục đẹp và đứng đắn. Ngày xưa thì áo dài khăn đống. Ngày nay thì các ông thường sắm veston cho trịnh trọng, các bà thường may áo dài hoa văn.

ễ rước dâu
Đoàn rước dâu của nhà trai đi thành từng đoàn, có cụ già cầm hương đi trước, cùng với người mang lễ vật.


Nhà gái cho mời cụ già thắp hương vái trước bàn thờ rồi cùng ra đón đoàn nhà trai vào. Cô dâu đứng sẵn để cùng với chú rể lạy trước bàn thờ, trình với tổ tiên.

Sau đó hai người cùng bưng trầu ra mời họ hàng. Bố mẹ cô dâu tặng quà cho con gái mình. Có gia đình cũng lúc này bày cỗ bàn cho cả họ nhà gái chung vui. Khách nhà trai cũng được mời vào cỗ. Sau đó là cả đoàn rời nhà gái, để đưa dâu về nhà chồng. Họ nhà gái chọn sẵn người đi theo cô gái, gọi là các cô phù dâu.


Sau lễ rước dâu, cả hai họ cùng chia vui với cô dâu và chú rể, hai nhà hợp thành một. Tình thông gia trao qua những chum rượu nhỏ.

Một số nơi còn lưu truyền rất khắt khe, phải đầy đủ các lễ: lễ tơ hồng, lễ trải giường tân hôn, lễ lại mặt, lễ cheo...
Lễ tơ hồng
Cả hai họ cùng ngồi ăn uống xong, tất cả ra về, trừ người thân tín thì ở lại. Họ chờ cho cô dâu chú rể làm lễ cúng tơ hồng. Người ta cho rằng vợ chồng lấy được nhau, là do ông Tơ bà Nguyệt trên trời xe duyên cho. Cúng tơ hồng là để tạ ơn hai ông bà này. Lễ cúng tơ hồng đơn giản nhưng rất thanh lịch, không có cỗ bàn nhưng có rượu và hoa quả. Có thể cúng trong nhà, mà cũng có thể cúng dưới trời . Ông cụ già cầm hương lúc đón dâu, hoặc ông cụ già cả nhất của họ hàng, chứng kiến buổi lễ. Lạy cụ tơ hồng, rồi hai vợ chồng vái nhau (gọi là phu thê giao bái). Các đám cưới quý tộc thì việc tổ chức có quy cách hơn.

Trải giường chiếu
Xong lễ tơ hồng, thì cô dâu chú rể cùng mọi người vào phòng cô dâu. Trong lúc này trên chiếc giường cưới đã có sẵn đôi chiếu mới úp vào nhau. Bà mẹ chồng, hoặc một bà cao tuổi khác, đông con nhiều cháu, phúc hậu, hiền từ, sẽ trải đôi chiếu lên giường, trải cho ngay ngắn, xếp gối màn cẩn thận.
Lễ hợp cẩn
Đây là buổi lễ kết thúc đám cưới tại nhà trai. Trước giường có bàn bày trầu rượu và một đĩa bánh. Loại bánh này gọi là bánh phu thê (sau này ta đọc thành bánh xu xê). Ông cụ già đứng lên rót rượu vào chén rồi mời đôi vợ chồng cùng uống, phải cùng cạn chén, cùng ăn hết cái bánh - chỉ co hai vợ chồng, không chia cho ai, không để thừa.
Mọi người ra ngoài, để hai vợ chồng cùng tâm sự. Ở một số nhà khá giả, thiên về hoạt động văn hoá, thì những bạn bè văn chương chữ nghĩa với chàng rể còn mang hoa, thắp đền sáng rực trong phòng hợp cẩn. Họ cũng ca hát, gây tiếng động, hoặc vỗ tay, đập các khúc gỗ vào nhau. Do đó mà sau có chữ động phòng hoa chúc.
Lễ lại mặt
Cũng gọi là ngày nhị hỉ, lễ cưới xong, sáng hôm sau, hai vợ chồng trẻ sẽ trở về nhà gái, mang theo lễ vật để tạ gia tiên. Lễ vật cũng có trầu, xôi, lơn. Bố mẹ vợ làm cơm để mời chàng rể và con gái mình. Ở một số trường hợp nếu xảy ra chuyện gì mà nhà trai không bằng lòng sau đêm hợp cẩn, thì lễ nhị hỉ lại có những chuyện không hay. Nhưng trường hợp này rất hiếm.
Lễ cheo
Lễ cưới Việt Nam còn có một hiện tượng độc đáo, đó là lễ cheo. Lễ cheo có thể tiến hành trước nhiều ngày, hoặc sau lễ cưới một ngày. Lễ cheo là nhà trai phải có lễ vật hoặc kinh phí đem đến cho làng hay cho xóm có con gái đi lấy chồng. Lễ cưới là để họ hàng công nhận, lễ cheo là để xóm làng tiếp thu thêm thành viên mới, tế bào mới của làng. Thật ra đây cũng là thủ tục như bây giờ chúng ta đăng ký ở Uỷ ban. Song người Việt không cho đó chỉ là thủ tục, mà là một lễ nghi hẳn hoi. Người theo chữ nghĩa sách vở thì gọi lễ cheo này là lễ lan nhai (nhiều người đọc ra là lễ lan giai). Lan nhai có nghĩa là tiền nộp cheo cho làng khi nhà trai đến đón dâu ở nhà gái.
Cách thức tổ chức, trình tự tiến hành của một đám cưới Việt Nam ngày xưa là như vậy. Những đám cưới theo kiểu mới hiện nay, theo phong trào, theo quan niệm mới (thật ra thì chưa thành quan điểm), ta cứ làm mà thực ra thì chưa ưng lắm. Gần đây đời sống của ta có tươi hơn, chuyện xã giao, chuyện theo đà cũng rầm rộ hơn, khiến cho nhiều người biết là không ổn mà vẫn cứ phải theo những kiểu cách phô trương (có cả trục lợi).

Ngày nay sau khi làm lễ rước dâu về nhà trai, các cặp đôi thường ra nhà hàng, đãi một tiệc chung bà con hai họ, cùng bạn bè đồng nghiệp. Chung vui cùng một tiệc. Như vậy rút ngắn được nhiều lề thói phiền phức và cổ hũ. Cũng như tiết kiệm chi phí cho một lễ cưới ở Việt Nam.